VỀ THĂM DI TÍCH ĐỀN THỜ THIÊN HỘ DƯƠNG VÀ ĐỐC BINH KIỀU

Thứ bảy, 30/05/2020, 13:43 GMT+7

Qua khỏi chùa là đến đền thờ Thiên hộ Võ Duy Dương (Thiên Hộ Dương) và Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều (Đốc Binh Kiều), hai nhà yêu nước trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp (1862 - 1866) đã chọn Gò Tháp làm căn cứ địa của nghĩa quân yêu nước.

Tiểu sử Thiên Hộ Dương (Tượng Võ Duy Dương ở Bảo tàng tỉnh Đồng Tháp)

   Thiên Hộ Võ Duy Dương (1827-1866), còn gọi là Thiên Hộ Dương (do giữ chức Thiên hộ)

Là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp (1862-1866) ở vùng Đồng Tháp Mười, thuộc Đồng bằng Sông Cữu Long, Việt Nam.

+ Quê quán:  Theo tư liệu của gia đình họ Võ ở Nhơn Tân (An Nhơn, Bình Định) và của Ban Nghiên cứu lịch sử tỉnh Bình Định, Võ Duy Dương sinh năm 1827 tại thôn Cù Lâm Nam nay là thôn Nam Tượng I, xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Nam Tượng I là một thôn nhỏ nằm dưới chân núi Thơm, cách sông Côn 4 km về phía Nam, cách làng Kiên Mỹ 12 km. Tổ tiên của Võ Duy Dương là Võ Hữu Man từ miền Bắc vào thôn Nam Tượng lập nghiệp, đến đời Võ Duy Dương là đời thứ 6. Theo lời kể của cụ Võ Quế, 85 tuổi (1989), cháu nội Võ Duy Dương, thì ông Dương là con thứ ba trong gia đình, và thuở nhỏ ông Dương là người sáng trí, khỏe mạnh, giỏi võ nghệ. Khi cha qua đời, gia đình sa sút, ông Dương phải đi chăn trâu để sinh sống. May nhờ vị quan sở tại cảm thông hoàn cảnh nghèo khó và mến tài nên nhận làm con nuôi.

Trong một kỳ thi võ, ông cử được một lúc 5 trái linh, mỗi trái 60 cân (hai tay xách 2 trái, hai nách kẹp 2 trái, răng cắn 1 trái, nên từ đó mọi người đều gọi ông là Ngũ Linh Dương. Ông có người anh tên là Võ Duy Tân, sau này tham gia phong trào Cần Vương kháng Pháp ở Bình Định do Mai Xuân Thưởng chỉ huy. Sau khi Mai Xuân Thưởng chết, ông Tân lại theo Võ Trứ, bị Pháp bắt và xử án chém cùng với nhiều nghĩa quân khác tại Gò Chàm (Bình Định) ngày 13 tháng 9 năm Đinh Dậu (tức ngày 9 tháng 10 năm 1898), thọ 73 tuổi.

- Vào Nam kháng Pháp

Năm 1853, theo đề nghị của các quan, trong đó Nguyễn Tri Phương, vua Tự Đức ban hành chính sách đồn điền. Năm 1857, hưởng ứng chính sách vừa kể, Võ Duy Dương vượt biển vào Nam Kỳ tìm đến đất Ba Giồng, ven Đồng Tháp Mười (nay thuộc địa bàn các huyện Châu Thành, Cai Lậy, Cái Bè, thuộc tỉnh Tiền Giang), để chiêu dân lập ấp, kết bạn với Nguyễn Hữu Huân và trở thành một hào phú ở địa phương.

Tháng 2 năm 1859, Pháp đánh chiếm Gia Định rồi đánh chiếm thành Mỹ Tho (tháng 4 năm 1861), Võ Duy Dương cùng Thủ Khoa Huân kéo lực lượng về Gia Định đánh trả. Vì vậy, ông được phong chức Chánh quản đạo. Thành Gia Định vỡ, ông vượt biển về Kinh đô Huế, bái yết vua Tự Đức hiến kế đánh đuổi Pháp. Sau đó, ông được điều về Quảng Nam dẹp cuộc nổi dậy của người Thạch Bích (mọi Vách Đá) và được phong hàm Chánh bát phẩm Thiên hộ vào năm 1860.

Tháng 5 năm 1861, ông được sung vào phái bộ của Khâm phái quân vụ Đỗ Thúc Tĩnh vào Nam Kỳ với nhiệm vụ chiêu mộ nghĩa dũng chống ngoại xâm. Trong một thời gian ngắn, ông mộ được gần một ngàn người, trong số đó, có cả lính đánh thuê thuộc quân đội Pháp và một người Pháp là Liguet  và ông được phong chức Quản cơ.

Ông đóng quân ở Bình Cách (huyện Chợ Gạo-Tiền Giang), liên kết với Trương Định ở Gò Công, Trần Xuân Hoà (Phủ Cậu) ở Thuộc Nhiêu và Đỗ Thúc Tĩnh ở Mỹ Quí. Tự giác giương cao khẩu hiệu "Cần Vương" chống Pháp, nghĩa quân lấy Đồng Tháp Mười là vùng rừng đầm lầy, hiểm trở vào bậc nhất ở Nam Bộ thời bấy giờ làm căn cứ. Từ đây, nghĩa quân dùng chiến thuật du kích đánh Pháp trên cả một vùng rộng lớn từ Hà Tiên, Rạch Giá đến Đồng Tháp, gây cho quân Pháp nhiều tổn thất.

Giữa lúc lực lượng nghĩa quân đang quyết chiến, thì triều đình Huế ký Hòa ước Nhâm Tuất (1862). Ngay sau đấy, triều đình Huế buộc các tổ chức nghĩa quân phải hạ khí giới. Không tuân lệnh, ông bị triều đình tước binh quyền và sai người lùng bắt (Phan Thanh Giản nhận lệnh triều đình, sai quản cơ Trần Văn Thành truy đuổi).

Sau, Thủ Khoa Huân, Trương Định lần lượt hy sinh. Tuy nhiên, Võ Duy Dương cùng với các nghĩa sĩ khác như Nguyễn Tấn Kiều (tức Đốc Binh Kiều), Trần Kỳ Phong, Thống Bình, Lãnh Binh Dương, Thương Chấn, Thống Đa, Quản Văn, Quản Là,...vẫn không hề nản chí.

Ngày 14 tháng 4 năm 1866, Pháp huy động một lực lượng gồm 1.000 quân thủy bộ cùng nhiều tàu chiến, đại bác chia làm ba mũi đồng loạt tiến công từ ba hướng Cần Lố, Cái Nứa và Bắc Chiêng, quyết đánh chiếm sở chỉ huy của nghĩa quân. Nhiều trận đụng độ ác liệt đã xảy ra, làm quân Pháp bị tiêu hao không ít, nhưng trước sức công phá của vũ khí mạnh, nghĩa quân phải rút đi, sau khi Đồn Trung bị đánh hạ . Theo Hồ sơ cá nhân của Trần Bá Lộc mang số SL. 311 trong Văn khố Quốc gia, thì ông Lộc có tham gia trận này, và sau đó được thực dân Pháp tặng thưởng Danh dự Bội tinh bạc cũng vào tháng 4 năm đó.

Sau khi rút khỏi Đồng Tháp Mười, Võ Duy Dương đem quân phối hợp với con của Trương Định là Trương Quyền và thủ lãnh người Khmer là Acha Xoa, tiếp tục đánh Pháp nhiều trận trước khi suy yếu dần.

- Các giả thuyết về cái chết của Thiên Hộ Dương

Cái chết của vị anh hùng dân tộc Thiên Hộ Dương có nhiều bí ẩn, có nhiều giả thuyết khác nhau:

* Giả thuyết Thiên Hộ Dương mất trên đường đi ra Huế

 Sau khi căn cứ Đồng Tháp Mười thất thủ (sau ngày 14 tháng 4 năm 1866), đến tháng 10 năm 1866, Võ Duy Dương dùng thuyền theo đường biển ra Bình Thuận để cầu viện sự giúp đỡ của triều đình và liên lạc với nghĩa sĩ miền Trung nhằm gây dựng lại lực lượng.

Dựa vào những phân tích của Gustave Janneau về hai bản tấu kín của ông Dương dâng vua Tự Đức  thì rất có thể triều đình cho mời ông ra Huế để trình bày kỹ càng hơn việc: "Đề nghị nhà vua cho phép dùng mưu kế thu hồi lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ", "nếu nhà vua cho lệnh, ông có thể tiêu diệt hết binh lính Pháp ở nơi kênh rạch nhỏ hẹp, nơi mà các đại bác mất tác dụng"...

Cũng không loại trừ khả năng triều đình đang tìm cách bắt Võ Duy Dương, để làm vừa lòng Pháp, không cho họ lấy cớ vì ông "phá quấy" mà lấn chiếm đất thêm, vì bấy giờ chủ súy Pháp vẫn cho là các quan lại ở ba tỉnh miền Tây vẫn chứa giấu Thiên Hộ Dương.

Nhưng không may, khi đến cửa biển Cần Giờ, ông và các thuộc hạ đều bị cướp biển sát hại, nên câu hỏi vì sao ông ra Huế vẫn chưa có lời đáp.

* Giải thích thêm nguyên nhân mất 

Tuy vẫn còn vài ý kiến khác, nhưng theo những nỗ lực tìm kiếm xác minh gần đây, nhiều nhà nghiên cứu sử đã đồng thuận rằng Võ Duy Dương đã bị cướp biển giết ở mũi Thị Khiết (Thần Mẫu) thuộc vùng biển Cần Giờ, khoảng tháng 10 năm 1866, lúc ông mới 39 tuổi.

Bởi căn cứ vào các nguồn:

Trong báo cáo của Nguyễn Đức Hạnh gửi cho Chánh sở mật thám Pháp:

Người này tên là Dương đã bỏ trốn sau khi Tháp Mười bị chiếm. Ông ta lên chiếc ghe bầu để đi Bình Thuận. Trước khi đến xứ này, ông đã bị tên Lý Sen, cầm đầu một đám cướp biển tấn công. Lý Sen đi trên một chiếc thuyền mành mà người ta gọi là “Thiền du”, đã cho liệng xuống biển tất cả những người An Nam đi trên chiếc ghe cửa này. Lý Sen lục lọi trong một chiếc rương lớn lấy tất cả áo quần, các cấp bằng và mũ miện của Thiên Hộ Nguyên soái tên Võ Duy Dương.

Nguyễn Đức Hạnh còn cho biết thêm sau đó tên Sen bị bắt vì Hai Sĩ tố cáo y đã cướp bóc nhiều ghe biển, và tên Sen đã cắn lưỡi chết trong ngục.

- Tác giả Schreiner trong quyển Đại Nam Quốc sử cũng đã tái xác nhận nguồn tin này:

Người ta nghe tin ông Võ Duy Dương mới chết chìm tại phía mũi Đinh (Padaran), là nơi ông đánh với ba chiếc ghe tàu ô của đảng ăn cướp, quân ấy hạ hết người trên hai ghe.

Chẳng lẽ một vị Thủ lĩnh kháng chiến lẩy lừng lại bị giết bởi cướp biển?

- Các giả thuyết khác về cái chết của Thiên Hộ Dương

+ Trong dân gian ở xã Mỹ Thọ (Cao Lãnh, Đồng Tháp) còn lưu truyền nguồn tin là sau khi thất thủ ở Đồng Tháp Mười, Võ Duy Dương rút qua An Giang, Rạch Giá và bị cướp biển chặn đánh và chết ở cửa biển Rạch Giá (địa điểm chết khác với 2 tài liệu trên).

+  Ngoài ra, còn có hai tư liệu sau, cũng cho rằng ông Võ Duy Dương mất ngoài biển cả, nhưng nguyên do là vì bão tố làm cho đắm thuyền:

- Trong Đại Nam thực lục chính biên:

Thiên Hộ Dương ủy người về dâng sớ kín. Vua sai Vũ Trọng Bình hỏi kín, cốt phải hỏi đến chỗ cùng bàn cho ổn thỏa. Rồi được quan Thuận Khánh báo rằng Võ Duy Dương đi thuyền về tỉnh Bình Thuận đầu thú gặp gió nên bị đắm ở phận biển Thần Mẫu, sai đi tìm xác, chi đồ vật đem chôn, cấp cho mẹ hắn mỗi tháng 5 quan tiền, 1 phương gạo.

- Trong Nam Kỳ Phong tục nhân vật diễn ca của Nguyễn Liên Phong:

Thoát thân về với ghe bầu,

Khỏi nơi Cần Hải tiền xu đoán thoàn.

Giấc nồng đêm dậy nhảy khan,

Hồn chôn bụng cá ưng oan chẳng cần.

- Đền thờ

Để tưởng nhớ Võ Duy Dương, tại Gò Tháp (xã Mỹ Hòa, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp), người dân đã lập đền thờ ông và đã được công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia. Tại nơi ông sinh ra (xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn), năm 1997, dòng họ đã góp tiền xây dựng đền thờ và hàng năm tổ chức tế lễ.

Gần đây, sáng ngày 15 tháng 12 năm 2007 Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam trao tặng cho đền thờ Võ Duy Dương tại xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn một tượng đồng phác họa chân dung ông, trong chương trình “Mỗi người một giọt đồng đúc tượng danh nhân”.

Tại đền thờ ông và Đốc Binh Kiều ở Gò Tháp có câu đối:

Sử sách sáng chói danh Thiên Hộ,

Bia miệng lưu truyền tiếng Đốc binh.

Ở đây cũng còn lưu truyền câu ca dao:

Chiều chiều mây giục gió vần

Cảm thương Thiên Hộ xả thân cứu đời!

Tiểu sử Đốc Binh Kiều (Tượng Đốc Binh Kiều ở Bảo tàng Đồng Tháp)

Đốc Binh Kiều (?- 1886) hay Nguyễn Tấn Kiều, Lê Công Kiều, Trần Phú Kiều, trong dân gian gọi tôn là Quan Lớn Thượng; là Phó tướng của Võ Duy Dương trong cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở Đồng Tháp Mười vào nửa cuối thế kỷ 19.

+ Cuộc đời 

Tương truyền Đốc Binh Kiều là người miền Trung di cư vào miền Nam lập nghiệp ở huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường.

Sau khi thành Gia Định thất thủ (1859), ông đến Gia Định đầu quân chống thực dân Pháp.

Nhờ giỏi võ nghệ, ông được cử chỉ huy một đội dân dũng. Năm 1861 Đại đồn Kỳ Hòa bị giặc Pháp san bằng, ông không theo quân triều đình rút về Biên Hòa mà dẫn quân về lập căn cứ ở Sầm Giang, Long Hưng (thuộc huyện Kiến Đăng) để tiếp tục chiến đấu.

Khi hay tin, Trương Định lập căn cứ Tân Hoà (Gò Công), Võ Duy Dương (còn gọi là Thiên Hộ Dương) lập căn cứ ở Bình Cách, Mỹ Quý (thuộc Ba Giồng, huyện Kiến Đăng), ông đem quân về hợp tác với chủ tướng Dương, được phong chức Đốc binh và rồi trở thành Phó tướng.

Sau hai cuộc tấn công lớn của giặc Pháp (tháng 11 năm 1862 và ngày 5 tháng 11 năm 1863), đến ngày 20 tháng 4 năm 1863, quân Pháp lại tấn quân lần nữa, khi ấy quân khởi nghĩa mới thật sự bị đánh bật ra khỏi Bình Cách, rút về Xoài Tư, một trong ba cửa ngõ vào Đồng Tháp Mười.

Để củng cố lại lực lượng, Thủ Khoa Huân đi các tỉnh miền Tây vận động tiền bạc để mua thêm võ khí, Võ Duy Dương đi chiêu mộ thêm lính và hô hào đồng bào chống quân xâm lược, còn ông thì tìm vào Đồng Tháp Mười, lập căn cứ chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài.

Ở vùng đầm lầy này, ông đã huy động quân dân xây dựng ba đồn chính bằng đất có hào và tre bao bọc nằm án ngữ trên ba con đường dẫn vào Đồng Tháp Mười, đó là Đồn Tiền (trên đường đi Cái Nứa), Đồn Tả (trên đường đi Mộc Hóa, hướng Gò Bắc Chiêng) và Đồn Hữu (trên đường đi Cần Lố), và đặt đại bản doanh tại Đồn Trung (Gò Tháp).

Tháng 7 năm Giáp Tý (1864), Thủ Khoa Huân bị Tổng đốc An Giang là Phan Khắc Thận bắt giao cho Pháp. Đến tháng sau (20 tháng 8 năm 1864), Trương Định bị Huỳnh Công Tấn phản bội, nên hy sinh ở Gò Công.

Trước những mất mát to lớn này, Võ Duy Dương quyết định rút vào Đồng Tháp Mười, và nơi đây thực sự trở thành trung tâm kháng chiến mới trong những năm 1864-1866.

Theo sự phân công của chủ tướng, Đốc Binh Kiều chỉ huy Đồn Tả, chịu trách nhiệm phòng giữ mặt Xáng Xéo, Rạch Ruộng; không cho giặc Pháp từ Cai Lậy, Cái Bè tiến vào.

Ở đây, có vài lần ông đã chủ động kéo quân ra đánh Cai Lậy, và nhiều nơi khác, làm cho giặc Pháp bị nhiều thiệt hại. Tuy nhiên, cách thức của ông thường dùng vẫn là lối đánh du kích. Nhờ địa thế nơi ông trấn giữ có nhiều đầm lầy, tràm đưng cùng vô số muỗi, đỉa...nên ông đã cùng nghĩa quân nghĩ ra nhiều cách đánh du kích, khá hiệu quả, như thả ong độc, rắn độc; lợi dụng cỏ khô trên đồng, dùng kế hỏa công; hay gài chông, đặt bẫy v.v...

Trong cuộc tấn công Gò Tháp vào tháng 4 năm 1866, thực dân Pháp đã sai các sĩ quan là: Roubé, Paris de la Bollardère Gally, Passebose, Vigny và các cộng sự là Trần Bá Lộc, Huỳnh Công Tấn, Phạm Công Khanh...dẫn một đội quân đông đảo đồng loạt tấn công tấn cả ba đồn, hòng mở đường tiến vào đại bản doanh. Võ Duy Dương, Đốc Binh Kiều cùng nghĩa quân chống trả quyết liệt, đẩy lui được nhiều đợt tiến công của địch.

Chẳng may, lúc lên đài quan sát, Đốc Binh Kiều bị đạn của địch bắn trúng, được đưa về gò Giồng Dung điều trị. Nhưng do bị thương nặng, lại buồn rầu vì đại đồn thất thủ, ông mất ngay năm đó (1866). Nhưng cũng có người cho rằng, trong lúc đánh xáp lá cà, ông đã hy sinh tại trận chiến trên.

+ Mộ táng

Khi Đốc Binh Kiều mất, nghĩa quân mang thi hài ông về chôn cất tại nền đồn Trung ở Gò Tháp, đồng thời cũng làm vài ngôi mộ giả để nghi trang. Hiện nay, ở Gò Tháp có đền thờ chung, thờ ông và chủ tướng Võ Duy Dương. Và hàng năm, từ chiều 14 đến rạng sáng 16 tháng 11 (âm lịch), đều có tổ chức lễ hội để tưởng niệm.

Trong dân gian còn lưu truyền bài thơ ca ngợi ông như sau:

Vì nước quên mình bởi chữ trung,

Thương dân chi sá chốn sình bùn,

Mấy năm Đồng Tháp danh vang dội,

Cọp rống ngoài truông, cáo hãi hùng,

Hai thước im lìm nơi thạch động,

Đồng bào tưởng nhớ đứng thờ chung,

Nỗi lòng nghỉ đến nhiều năm trước,

Hương lửa đều không cảnh lạnh lùng.

Và ở huyện Cai Lậy, Tiền Giang có một ngôi trường phổ thông trung học mang tên ông.

Ngày 14 tháng 11 âm lịch hằng năm, là ngày giỗ chung hai ông.

Theo wikipedia

Ý kiến bạn đọc